Người dân lập hội, tại sao nhà nước cộng sản lại sợ?

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Trong lịch sử phát triển loài người, nhu cầu sinh hoạt quần tụ là một nhu cầu tự nhiên, ngay từ thuở sơ khai. Đó là bản chất thiết yếu của con người từ lúc bước ra khỏi thế giới mông muội ban đầu, thể hiện tính “đoàn lũ”, có thể ví với một hình thức khoa học thực nghiệm: vật chất cùng loại luôn có khuynh hướng kết tụ với nhau.

Ngày nay, việc lập hội và sinh hoạt hội trở thành một nếp sống bình thường và hợp pháp trong các nước mà quyền công dân được tôn trọng. Hội là gạch nối giữa chính quyền và người dân và là động lực quan trọng để thăng tiến quốc gia.

Nhưng mãi cho đến nay, quyền lập hội ấy mới được Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông Nguyễn Thái Bình báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội dưới hình thức một “dự án Luật về Hội”, sau hàng chục năm bàn thảo và… làm ngơ.

Tuy nhiên cũng như hầu hết những quyền công dân căn bản ở Việt Nam, trước đó quyền lập hội vẫn được “long trọng ghi nhận trong Hiến pháp” Việt Nam, với một câu thần chú muôn đời “phải bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với các hội”. Sở dĩ phải bảo đảm được sự lãnh đạo của đảng, phải chăng vì quyền lợi của đảng mâu thuẫn với quyền lợi nhân dân?

Theo báo Giáo Dục Việt Nam, để đóng dấu chứng thực cho quyền lập hội của người dân, ngay từ năm 1957, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã có Sắc lệnh số 102 về “Luật quy định quyền lập hội” của chính phủ. Và tính đến tháng 12/2014 cả nước có đến 52.565 hội. Cũng như hơn 1000 báo đài quốc doanh trên cả nước theo số liệu mới nhất, mọi hoạt động của trên 52 ngàn hội này đều nằm trong sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng.

Cho nên trong “Dự án Luật về Hội” mới đưa ra, Điều 8 đã quy định rất nhiều hành vi bị liệt vào “các hành vi bị cấm” bao gồm những hình thức cấm đoán điển hình như sau:

– Cản trở công dân, pháp nhân Việt Nam thực hiện quyền lập hội theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.

– Ép buộc, cưỡng ép công dân Việt Nam thành lập, tổ chức, hoạt động hội trái quy định của pháp luật.

– Xúi giục, lôi kéo, kích động, mua chuộc công dân Việt Nam thành lập, tổ chức và các hoạt động của hội trái pháp luật.

– Thành lập, tổ chức các hoạt động của hội trái pháp luật v.v…

Như vậy, dù phải đưa ra Dự án Luật về Hội trong một tình thế cần trình diễn bộ mặt cải cách dân chủ, đảng CSVN vẫn lo sợ, luôn rào trước đón sau để khi có dịp siết chặt các hoạt động hội dân sự, nhất là những hội nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước.

Thực chất của nhóm từ “trái quy định pháp luật” không gì khác hơn sợi dây thòng lọng quàng sẵn vào cổ người dân. Nhưng cũng để tỏ ra minh bạch và dân chủ, dù là dân chủ giả hiệu, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng ráng phán một câu vô thượng vô phạt “Công dân bị hạn chế thì hạn chế cái gì phải nói vào luật để bảo đảm quyền công dân”. Thực ra nếu có “ghi rõ vào luật” cho đẹp mặt, ai cũng biết những văn bản dưới luật sau đó cũng nhanh chóng vô hiệu hóa việc thi hành nó.

Ông Nguyễn Sinh Hùng cũng tỏ ra lo lắng khi cho ý kiến về dự thảo luật rằng “tình hình hội tràn lan, hoạt động không cao, hành chính hóa lớn, dựa vào kinh phí nhà nước cũng lớn. Bên cạnh đó, có loại không mang tên hội nhưng hoạt động như hội, có tính chính trị trong đó.”

Quan điểm của người đứng đầu cơ quan lập pháp chưa thật sự nhìn thấy việc lập hội và sinh hoạt hội là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu của xã hội công dân. Ông Nguyễn Sinh Hùng chỉ nhìn thấy khía cạnh “trị an” của nhà cầm quyền, không khác thời thực dân thống trị chỉ lăm lăm chiếc dùi cui trong tay.

Ông Hùng cũng như hầu hết các lãnh đạo đảng đều không biết, chính sự tranh đấu và sự khác biệt giữa các “đoàn lũ” thời kỳ đầu đã giúp cho con người phát triển lên một xã hội tiến bộ hơn.

Cũng có người như ông Nghiêm Vũ Khải dù với chức danh là Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, lại lên tiếng đòi quản lý hội để “xử lý khi có tiêu cực” và bày tỏ quan điểm không nên quy định tư cách pháp nhân “vì nó là vấn đề dân sự”.

Ông Khải đưa ra một dẫn chứng để biện minh cho sự quản lý này: “Ví dụ tôi sang Nhật Bản học thấy họ bắt cam kết, nếu sang học thì chỉ học chứ không được tham gia vào hoạt động chính trị ở nước đó, ví dụ tham gia vào hoạt động biểu tình. Tôi phải ký vào giấy cam kết, nếu vi phạm là họ đuổi khỏi Nhật Bản. Họ quy định rất mạch lạc như vậy. Đó chính là quản lý nhà nước của họ”.

Đây quả thật là một ví dụ bịa đặt, cố tình ngụy biện cho việc cần phải cấm đoán và quản lý chặt chẽ các hội đoàn. Vì không có gì chứng minh cụ thể chính phủ Nhật Bản hay chính phủ các nước văn minh khác như Anh, Pháp, Mỹ…bắt sinh viên Việt Nam du học “ký giấy không đi biểu tình”. Chua chát thay, chuyện này lại có dưới chế độ Cộng sản Việt Nam.

Câu kết luận của ông Khải “Trên thực tế có rất nhiều hội tốt, nhưng cũng có những hội phản động chống phá chế độ, cho nên phải đặt ra vấn đề quản lý”, giúp cho mọi người nhìn thấy bản chất của một nhà nước độc quyền chính trị lúc nào cũng đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi dân tôc. Làm thế nào phân biệt được một hội tốt và một hội phản động, nhà nước Việt Nam lâu nay chỉ nhờ vào lực lượng công an trang bị với dùi cui và còng số 8.

Trước áp lực của đại khối quần chúng yêu nước đã ý thức được quyền lợi vốn có của mình, đảng CSVN buộc phải đưa Dự án luật về Hội ra thảo luận trước quốc hội nhiệm kỳ 13. Đó chưa phải là một bước nhượng bộ hay thay đổi quan trọng trong một nền tảng pháp luật bao giờ cũng dựa trên sự cưỡng bách một chiều hơn là thuyết phục.

Bỏ qua trên 52 ngàn hiệp hội quốc doanh được báo cáo, trong những năm gần đây, mặc dù không được sự ưa thích của chính quyền độc tài, hoạt động xã hội dân sự tại Việt Nam đã nở rộ trong một xã hội khao khát dân chủ, nhân quyền. Gần 60 hội, phong trào dân sự đã được thành lập và điều đáng chú ý đặc biệt là đứng ngoài sự kiểm soát của chính quyền, với hoạt động càng ngày càng phong phú.

Khác với những xã hội hướng về các quyền công dân căn bản, quan điểm của các nhà lãnh đạo cộng sản hiện nay chưa vươn tới ý nghĩa của các tổ chức xã hội dân sự quan trọng đến mức độ nào cho việc đặt để một nền dân chủ đích thực. Do đó họ chỉ làm những việc đơn giản là gán cho các tổ chức xã hội dân sự một ý nghĩa chính trị xấu xa để tìm cách làm khó dễ hoặc ra tay triệt hạ bằng mọi hình thức.

Họ cũng không quan niệm nổi vai trò trung gian giữa chính quyền và những cá nhân trong một hiệp hội. Thiếu vai trò đó, chính quyền không bao giờ đi đến với nhân dân được và chỉ thống trị nhân dân bằng ép buộc. Lúc đó chính quyền cai trị đất nước trong cô đơn giống như một lực lượng xâm chiếm đến từ xa và đó cũng là mầm mống của sự sụp đổ.

Lập hội là một quyền tự nhiên của con người sống trong xã hội với ý thức muốn cho xã hội ấy tiến lên. Nhưng cơ chế “xin-cho” đã ngự trị trong tâm não của các nhà lãnh đạo cộng sản, hầu như họ giữ hết quyền “cho” ngay đối với những điều nhỏ nhất.

Không ai ngạc nhiên khi Dự án luật về Hội sẽ bị trì hoãn trong năm nay, dù có xuất hiện trong chương trình nghị sự của quốc hội. Theo báo chí Việt Nam, hôm 25/9/2015 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trong phiên bế mạc kỳ họp đã tuyên bố chỉ đạo rằng ’nên tạm lùi để chuẩn bị kỹ hơn’, sau hơn 10 lần thảo luận, bàn bạc.

Cũng vì thế mà một nhà hoạt động xã hội dân sự ở Hà Nội, ông Nguyễn Quang A khi trả lời phỏng vấn đài BBC cho rằng “nếu ai có quan điểm cho rằng bản thân việc ’dự thảo’ được phép đệ trình lên Ủy ban Thường vụ của Quốc hội đã là ’tích cực’ và ’tiến bộ’ thì đó là một sự ’ngộ nhận’”.

Dư luận cũng dễ dàng đồng ý với lời phê phán của ông A đối với bản Dự thảo Luật về Hội lần này là “tồi hơn” cả dự thảo 10 năm về trước.

Phạm Nhật Bình

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 15 – 21/4/2024

Nội dung:

– Hawaii tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương;
– Ghi ân công đức Quốc Tổ Hùng Vương tại Paris;
– Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội; Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) tại Genève, Thụy Sĩ;
– Kêu gọi tham gia Biểu tình và Văn nghệ đấu tranh nhân dịp UPR vào hai ngày 7 và 8/5, 2024 tại Genève, Thụy Sĩ.

Đồng ruộng ở ĐBSCL sau khi đắp đê. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Đời cha bán gạo, đời con khát nước

Nếu bây giờ tập trung truy tìm nguyên nhân chính tạo nên khô hạn, thiếu nước ở Đồng bằng sông Cửu Long thì thật dễ dàng tìm ra vài lý do vừa thực vừa mơ hồ như:

Do biến đổi khí hậu; Do biến động ở thượng nguồn sông Mekong; Do ý thức người dân trong việc sử dụng nước; Vân vân.

Những nét này cái nào cũng thực nhưng có điều ít ai thấy, nó cũng là cái rất thực, dễ giải thích, dễ thực hiện đó là chính sách “An ninh lương thực” được nhấn mạnh khoảng gần hai chục năm nay.

Những “Cây năng lượng” (ở Singapore) là một kiến trúc hình phễu, miệng rộng chừng 20 mét hứng nước chảy về hầm chứa. Cây này vừa tạo cảnh quan đẹp, vừa cảnh báo con người về thái độ với nước, vừa thu gom nước mưa. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Thử đi tìm đường cứu… nước

Tình hình vài năm nay và dăm bảy năm sau có những dự báo không mấy an tâm cho tình hình nước ngọt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ riêng tỉnh Kiên Giang có khoảng 30.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt.

Cả vùng này có khoảng nửa triệu hộ dân thiếu nước sinh hoạt trong năm tháng cao điểm mùa khô. 

Lý do chính là do biến động bởi dòng chảy sông Mekong đã có nhiều thay đổi, chưa tính đến con kênh Phù Nam bên Cambodia sắp “Trích huyết” sông Mekong ngang chừng, cho chảy sang Vịnh Thái Lan.

Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo công bố báo cáo quốc gia theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ 4 (UPR), ngày 15/4/2024. Ảnh chụp Báo Tin Tức

Việt Nam bác bỏ các báo cáo ‘thiếu khách quan’ về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc

Trong báo cáo đề ngày 27/2/2024 được công bố trên trang web của LHQ, nhóm chuyên trách Việt Nam của LHQ cho hay ít nhất 150 nhà báo độc lập, những người bảo vệ nhân quyền, và các nhà hoạt động dân chủ, đất đai và tôn giáo còn bị giam cầm chỉ vì thực hiện các quyền cơ bản của họ một cách ôn hòa trong các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường, quyền của người thiểu số và phát triển dân chủ.