Bài học về cục diện Libya

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print
Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

Trước sự cầu cứu gần như tuyệt vọng của phe đối lập tại Libya đang bị quân của Gadhafi càn quét bằng phi pháo và xe tăng tại các thành phố miền Đông, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã thông qua Nghị quyết 1973, thiết lập “vùng cấm bay” trên không phận Libya vào ngày 17 tháng 3 năm 2011 với 10 phiếu thuận 5 phiếu trắng. Tuy không có phiếu nào chống, nhưng sự kiện Trung Quốc, Nga, Đức, Ấn Độ, Ba Tây đã bỏ phiếu trắng cho thấy là việc quốc tế ra tay ngăn chận những hành động tàn sát người dân của Gadhafi không phải là điều dễ làm và dễ có sự đồng thuận của các nước.

Mặc dù khối Ả Rập lên án hành động tàn sát người dân của Gadhafi và nhất là tán đồng nghị quyết số 1973 của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, nhưng khi liên quân Anh, Pháp, Mỹ mở các cuộc phi pháo triệt hạ toàn bộ những căn cứ không quân của Libya và tấn công lực lượng quân sự trên bộ của Gadhafi, khiến có một số thường dân bị tử thương thì họ lại lên tiếng yêu cầu ngưng chiến. Chính những phản ứng thiếu quyết liệt và không đồng nhất của các quốc gia đã khiến cho Libya rơi vào hoàn cảnh hỗn loạn và nguy hiểm như hiện nay.

Ngay sau khi nhà độc tài Mubarak bị hạ bệ tại Ai Cập vào ngày 11 tháng 2, làn sóng dân chủ đã lan tỏa đến Bahrain, Yemen, Libya, Syria… với những cuộc biểu tình diễn ra liên tục của các lực lượng quần chúng. Tại Libya, ngay từ đầu, lực lượng nổi dậy đã cô lập nhiều cơ quan của chính quyền Gadhafi và lần lượt kiểm soát hầu hết các thành phố ở miền Đông Libya và đẩy thủ đô Tripoli rơi vào tình trạng tê liệt. Những nỗ lực đấu tranh của phe nổi dậy đã có lúc đẩy nhà độc tài Gadhafi rơi vào tình thế nguy hiểm và sắp phải bỏ chạy như ông Ben Ali tại Tunisia hay rút lui như ông Mubarak tại Ai Cập; nhưng chính sự chần chừ của Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là không muốn can thiệp mạnh của Hoa Kỳ, Pháp và Anh đã giúp cho Gadhafi khai thác tình huống bằng cách sử dụng lực lượng lính đánh thuê, tổng phản công lực lượng nổi dậy bằng quân sự.

Khi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ra Nghị Quyết 1973 hôm 17 tháng 3, nhiều người hy vọng là chỉ trong vòng 1 tuần hoặc tối đa là 10 ngày, lực lượng liên quân sẽ đè bẹp quân đánh thuê của Gadhafi và giúp cho lực lượng nổi dậy chiếm Libya hầu thiết lập một thể chế tự do dân chủ. Thế nhưng, đến hôm nay, sau hơn 10 ngày kể từ khi liên quân cô lập không phận Libya, tình hình chiến sự vẫn còn diễn ra phức tạp, lính của Gadhafi vẫn tiếp tục tàn sát lương dân và kiểm soát nhiều thành phố quan trọng.

Trong cuộc trả lời phỏng vấn của đài truyền hình CBS vào ngày 30 tháng 3 vừa qua, Tổng thống Obama tiết lộ rằng có thể Hoa Kỳ và liên quân Âu Châu sẽ phải giúp đỡ vũ khí cho lực lượng nổi dậy để có thể chiến đấu chống lại quân đánh thuê của Gadhafi. Phát biểu của Tổng thống Obama cho người ta dự kiến rằng Hoa Kỳ và liên quân sẽ không đưa quân vào Libya mà chỉ dùng phi pháo yểm trợ bên trên; trong khi đó, lực lượng nổi dậy phải tự chiến đấu để giải phóng Libya. Trong khi tình hình Libya rơi vào tình huống tiêu cực, những tin tức phấn chấn về sự hứa hẹn rút lui của các chế độ độc tài tại Yemen và Syria… đã cho chúng ta hai hình ảnh tương phản về phản ứng của thế giới và cách đối phó của lực lượng quần chúng nổi dậy.

Thứ nhất, nếu ngay từ đầu, Liên Hiệp Quốc và lực lượng liên quân hết lòng yểm trợ lực lượng quần chúng nổi dậy tại Libya và nhất là dùng phi pháo ngăn chận các hành động quân sự của Gadhafi đối với dân chúng thì cuộc nổi dậy của người dân Libya đã không biến thành cuộc nội chiến như hiện nay. Đành rằng sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc và liên quân Âu Châu vào tình hình Libya đã chuyển một thông điệp rất mạnh cho các chế độ độc tài. Đó là ở thời đại liên lập toàn cầu hóa hôm nay, mọi biến động của từng quốc gia có liên hệ chung với nhau và nhân loại không còn im lặng trước những bạo hành của các chế độ độc tài. Nghị quyết 1973 về Libya đã cho thấy là thế giới không còn muốn bị coi là thờ ơ trước những cuộc tắm máu đã từng xảy ra tại Thiên An Môn, Kosovo. Điều này sẽ giúp cho người dân tại những quốc gia độc tài sắt máu như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cộng sản Việt Nam, Miến Điện… mạnh dạn đứng lên khi thời cơ chín muồi; đồng thời, thông điệp này cũng khiến những chế độ độc tài biết là họ không còn có thể tự tung tự tác.

Thứ hai, chính sự chần chừ của Hoa Kỳ và Âu Châu đã khiến cho lực lượng nổi dậy phải cầm súng để tự vệ khi bị lực lượng lính đánh thuê của Gadhafi phản công. Trong thực tế, không phải mọi người đã sử dụng vũ khí để phản công lại lính của Gadhafi mà chỉ có một thiểu số quân nhân ly khai cầm súng chống lại. Nhưng chính những hình ảnh này đã làm biến thể cuộc đấu tranh tại Libya: từ bất bạo động biến thành bạo động. Khi thế trận rơi vào hoàn cảnh bạo động thì rất khó tạo được sự ủng hộ mạnh mẽ của thế giới và nhất là không còn đủ khả năng quy tụ được số đông tham gia vì đa số lo sợ bị tiêu diệt. Đáng lý ra, sau Nghị quyết 1973 của Liên Hiệp Quốc, dân chúng Libya sẽ mừng và túa ra đường nhiều hơn để tạo thành số đông áp đảo; nhưng thay vì tạo ra số đông trên đường phố, người ta chỉ thấy hình ảnh vũ trang của sinh viên, bác sĩ, luật sư đang cầm súng chống lại lính của Gadhafi.

Từ cục diện tại Libya đã giúp cho nhân loại rút ra ba bài học rất quan trọng.

Thứ nhất là không nên coi thường những tên lãnh đạo mang máu lạnh, sẵn sàng tàn sát dân để nắm quyền bất cứ giá nào như Gadhafi, Kim Chính Nhựt, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng… Ngay từ đầu phải tận dụng các áp lực quốc tế để cô lập và ngăn chận những vụ cuồng sát của chế độ độc tài. Tuy nhiên không vì thế mà đặt quá tin tưởng vào sự can thiệp của quốc tế, nhất là những can thiệp mang tính chất chế tài mạnh mẽ về quân sự hay phong tỏa ngoại giao. Lý do là các quốc gia vẫn e ngại sự quá đà trong việc can thiệp có thể dẫn đến những xung đột leo thang.

Thứ hai là phải nắm vững quy luật của đấu tranh bất bạo động để tránh những trường hợp rơi vào hoàn cảnh bạo động. Nếu muốn dùng áp lực quần chúng tay không, chấm dứt ách độc tải thì phải tạo điều kiện nâng cao sức mạnh quần chúng. Đó là đưa ra một thông điệp phù hợp tầm tay và phải công khai mục tiêu vận động. Khi người dân đồng tình với mục tiêu tranh đấu thì họ sẽ tích cực tham gia. Thông điệp đưa ra trong biến động tại Tunisia là “Cơm Áo, Công Việc Làm, Nhân Phẩm”. Thông điệp này không những đơn giản mà chính xác và tác động lên lòng người dân.

Thứ ba là tuyệt đối không được để cho cuộc cách mạng biến thể từ bất bạo động sang bạo động. Sự biến thể này không những huỷ hoại cuộc cách mạng dân chủ mà còn tạo ra cuộc nội chiến. Muốn tránh nguy cơ này, ngay từ đầu lực lượng nổi dậy phải tranh thủ được sự đồng tình của lực lượng quân đội. Phải coi quân đội luôn luôn đứng phía dân chúng và vì thế phải nỗ lực thuyết phục bằng bất cứ giá nào. Sự kiện một số tướng lãnh Libya ngã về phe nổi dậy trong thời gian đầu là cơ hội rất tốt để tranh thủ; nhưng vì phe nổi dậy đã không chú tâm khai triển chiến lược bất bạo động mà lại cầm súng chống trả nên cuối cùng đẩy lực lượng quân đội còn lại ngã theo Gadhafi.

Tóm lại, cục diện tại Libya tuy có những phức tạp đáng quan ngại do sự biến thái từ đấu tranh bất bạo động sang bạo động; nhưng chính những thủ đoạn ngoan cố của Gadhafi, lần lượt dư luận nhìn thấy là đã đến lúc phải tiêu diệt Gadhafi chứ không thể dung thứ như hơn 4 thập niên vừa qua. Kết luận mạnh mẽ và đồng thuận tuyệt đối của hơn 40 quốc gia trong hội nghị quốc tế hôm 29 tháng 3 tại Luân Đôn đã khẳng định điều này. Tuy nhiên, các quyết định quốc tế vẫn dựa trên tiền đề là chính dân tộc Libya phải lãnh trách nhiệm khai trừ Gadhafi, quốc tế chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Một lần nữa, ý thức “lấy sức mình làm chính” lại thể hiện chân giá trị.

Đáng lý ra dân tộc Libya đã hưởng thái hòa từ những tuần lễ trước đây, nhưng vì đã chọn lựa chiến lược đấu tranh sai nên đã đẩy đất nước vào cảnh hoang tàn, đổ nát ngoài dự kiến. Libya phải là bài học xương máu cần tránh cho Việt Nam.

Lý Thái Hùng
1/4/2011

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on whatsapp
Share on email
Share on print

BÀI MỚI

Ngân hàng TMCP Sài Gòn (gọi tắt là SCB) của đại gia Trương Mỹ Lan được chính phủ Việt Nam bơm tiền cứu. Ảnh: Nhac Nguyen/ AFP via Getty Images

Giải cứu SCB: Lợi bất cập hại!

Hình dung một cách đơn giản thì ngân hàng SCB huy động tiền của người dân, cung cấp cho bà Trương Mỹ Lan, bà này hối lộ cho các quan chức, rồi bây giờ bà Lan bị án tử hình còn NHNN bơm tiền ra để cứu ngân hàng SCB.

Khoản tiền giải cứu khổng lồ này [24 tỷ đô-la] không tự dưng mà có mà lấy từ ngân sách, nghĩa là từ tiền người dân và doanh nghiệp đóng thuế, từ bán tài nguyên quốc gia. Xét cho cùng, đất nước thiệt đơn thiệt kép, chỉ các quan chức giấu mặt được hưởng lợi.

Bản tin Việt Tân – Tuần lễ 15 – 21/4/2024

Nội dung:

– Hawaii tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương;
– Ghi ân công đức Quốc Tổ Hùng Vương tại Paris;
– Hội thảo ‘Hứa hẹn của Hà Nội; Thực trạng Nhân quyền tại Việt Nam’ trước phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) tại Genève, Thụy Sĩ;
– Kêu gọi tham gia Biểu tình và Văn nghệ đấu tranh nhân dịp UPR vào hai ngày 7 và 8/5, 2024 tại Genève, Thụy Sĩ.

Đồng ruộng ở ĐBSCL sau khi đắp đê. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Đời cha bán gạo, đời con khát nước

Nếu bây giờ tập trung truy tìm nguyên nhân chính tạo nên khô hạn, thiếu nước ở Đồng bằng sông Cửu Long thì thật dễ dàng tìm ra vài lý do vừa thực vừa mơ hồ như:

Do biến đổi khí hậu; Do biến động ở thượng nguồn sông Mekong; Do ý thức người dân trong việc sử dụng nước; Vân vân.

Những nét này cái nào cũng thực nhưng có điều ít ai thấy, nó cũng là cái rất thực, dễ giải thích, dễ thực hiện đó là chính sách “An ninh lương thực” được nhấn mạnh khoảng gần hai chục năm nay.

Những “Cây năng lượng” (ở Singapore) là một kiến trúc hình phễu, miệng rộng chừng 20 mét hứng nước chảy về hầm chứa. Cây này vừa tạo cảnh quan đẹp, vừa cảnh báo con người về thái độ với nước, vừa thu gom nước mưa. Ảnh: FB Nguyễn Huy Cường

Thử đi tìm đường cứu… nước

Tình hình vài năm nay và dăm bảy năm sau có những dự báo không mấy an tâm cho tình hình nước ngọt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ riêng tỉnh Kiên Giang có khoảng 30.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt.

Cả vùng này có khoảng nửa triệu hộ dân thiếu nước sinh hoạt trong năm tháng cao điểm mùa khô. 

Lý do chính là do biến động bởi dòng chảy sông Mekong đã có nhiều thay đổi, chưa tính đến con kênh Phù Nam bên Cambodia sắp “Trích huyết” sông Mekong ngang chừng, cho chảy sang Vịnh Thái Lan.